Áo dài xưa và nay

Khởi nguồn từ chiếc áo giao lãnh bốn vạt ở thế kỷ 17, áo dài Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi để phục vụ cho nhu cầu và vai trò của người phụ nữ ở mỗi thời điểm trước khi dần định hình vào những năm 1960.

Hiếm có trang phục nào vừa kín đáo, chuẩn mực, lại vừa tôn lên dáng vẻ thướt tha, mềm mại của người phụ nữ Việt Nam như chiếc áo dài truyền thống. Từng là trang phục hàng ngày của phụ nữ Việt Nam trước những năm 1970, chiếc áo dài hiện đại với khả năng biến hóa linh hoạt, từ kiểu dáng, chất liệu đến họa tiết, vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thiết kế và tín đồ thời trang ở mọi lứa tuổi.

Xem thêm: Thuyết Minh Về Áo Dài Việt Nam

Áo dài hiện đại (1970 – nay)

Sau những năm 1970, đời sống đổi mới đã khiến chiếc áo dài dần vắng bóng trên đường phố. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, chiếc áo dài đã trở lại với nhiều kiểu dáng, chất liệu khác nhau qua các bộ sưu tập đầy sáng tạo và phá cách của các nhà thiết kế Võ Việt Chung, Sĩ Hoàng, Thuận Việt… Không chỉ dừng lại ở kiểu dáng truyền thống, chiếc áo dài đã được cải biên thành áo cưới, áo tà ngắn để mặc với quần jeans…

Một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cải cách hành chính

Một số địa phương khi tiến hành sơ kết, tổng kết triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích về vai trò của Đảng trong tiến trình cải cách hành chính như sau:

Một là, cải cách hành chính là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, do đó phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng; phải xác định là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tạo sự chuyển biến về nhận thức,trách nhiệm, sự thống nhất và quyết tâm cao trong cả hệ thống chính trị là yếu tố quyết định đến sự thành công của công cuộc cải cách hành chính.

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hành chính các cấp có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, có tính chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị là nhân tố quyết định đến sự thành công của công tác cải cách hành chính. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ quan tâm, người đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm và sự quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính thì nơi đó sẽ có chuyển biến rõ rệt và ngược lại, bên cạnh đó cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC nhiệt tình, tâm huyết và năng lực nhất định để tham mưu, đề xuất giúp người đứng đầu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đạt kết quả.

Ba là, cải cách hành chính nhà nước phải được tiến hành đồng bộ, trong đó cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá,có ý nghĩa to lớn trong việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và cá nhân, do đó cần thiết phải chuyển một số dịch vụ hành chính mà Nhà nước không cần nắm giữ cho các tổ chức và xã hội hóa đảm nhiệm; mạnh dạn loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong giải quyết công việc hành chính có liên quan tổ chức và cá nhân. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền với sự tham gia của cả hệ thống chính trị sẽ góp phần làm cho hệ thống các cơ quan hành chính gần dân và phục vụ đời sống,sinh hoạt của nhân dân được tốt hơn.

Bốn là, cải cách hành chính thành công đòi hỏi phải có nguồn lực để đầu tư, trước hết là đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, công khai minh bạch các quy trình, thủ tục hành chính và chính sách có liên quan người dân, tổ chức trên các lĩnh vực quản lý.

Năm là, đề cao vai trò giám sát của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào giải quyết các công việc của địa phương, xây dựng cộng đồng dân cư đoàn kết, thống nhất.

Phải quán triệt tư tưởng dân là chủ, lấy dân làm gốc, phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân, khắc phục mọi phiền hà, sách nhiễu đối với dân. Mở rộng về phạm vi và tính thực chất trong các quy định về quyền của công dân tham gia các công việc của Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước. Từ đó từng bước nâng cao trình độ, năng lực làm chủ của người dân.

Sáu là, cần cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng xây dựng các quy chế, quy định,quy trình thực hiện các mối quan hệ của cấp ủy với các tổ chức, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu các tổ chức nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội.

Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có đủ tâm, đủ tầm, trung thực, tận tuỵ với công việc và am hiểu pháp luật. Các cơ quan, đơn vị có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ đối với cán bộ, công chức, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo để kịp thời nắm bắt thông tin, kiến thức mới, phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành; kịp thời loại bỏ những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, tham nhũng, biến chất, cơ hội, gây cản trở công cuộc cải cách hành chính hiện nay.

Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển

Đầu tư là hoạt động kinh tế rất phổ biến và có tính chất liên ngành. Có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư nhưng suy cho cùng có thể hiểu đầu tư trên hai góc độ khác nhau:

Theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự hi sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực (tài lực, vật lực, nhân lực, trí lực…) đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác) và gia tăng năng suất lao động trong nền sản xuất xã hội.

Theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Vậy, xét theo bản chất có thể phân chia hoạt động đầu tư trong nền kinh tế ra thành 3 loại: đầu tư tài chính (là hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận trực tiếp cho người bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua bán các chứng chỉ có giá mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế), đầu tư thương mại ( đây là hình thức mà nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán), đầu tư tài sản vật chất và sức lao động (còn gọi là đầu tư phát triển). Khác với hai hình thức trên, đầu tư phát triển tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần tích cực tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm 3 yếu cơ bản:

Đầu tư phát triển là một chuỗi các hoạt động chi tiêu, hao phí các nguồn lực: nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất ( đất đai, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…), nguồn lực lao động và trí tuệ.

– Phương thức tiến hành các hoạt động đầu tư: xây dựng mới, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này…

– Kết quả đầu tư, lợi ích đầu tư: Hoạt động đầu tư mang lại lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng (doanh thu, lợi nhuận…) và đem lại lợi ích cho nền kinh tế- xã hội nói chung. Đầu tư được tiến hành trong hiện tại và kết quả của nó được thu về trong tương lai.

Như vậy, đầu tư phát triển là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có.

Kinh nghiệm quản trị nguồn nhân lực Mỹ

Kinh nghiệm quản trị nguồn nhân lực Mỹ

Mỹ là một đất nước trẻ, giàu tài nguyên, thu hút người từ nhiều nơi trên thế giới tới kiếm sống với động lực thúc đẩy chủ yếu là các yếu tố tài chính, kinh tế.

Đối với Mỹ « Việc làm ra tiền là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất để giành sự kính trọng xã hội ». Vì vậy. các tư tưởng làm giàu trong xã hội được kích thích, vị trí, chức tước trong xã hội Mỹ không được đánh giá cao như ở những nơi có nền văn minh truyền thống, ngay cả giáo dục, đào tạo cũng chỉ được coi là một hình thức đầu tư cá nhân. Văn hoá của Mỹ thể hiện tính thực dụng, tính cá nhân chủ nghĩa cao, quyền tự do cá nhân được xếp ưu tiên hàng đầu. Người Mỹ chấp nhận xung đột, coi xung đột là động lực phát triển.

Chính phủ Mỹ đã thiết lập và phát triển cơ chế tự do kinh doanh và cạnh tranh phù hợp với đặc điểm văn hoá tự do, thực dụng của Mỹ : Doanh nghiệp là pháp nhân kinh tế hoàn toàn độc lập, hoạt động kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường, giá cả do thị trường quyết định. Doanh nghiệp tự do lựa chọn công nhân viên chức, công nhân viên chức tự do lựa chọn doanh nghiệp. Nhà nước điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp bằng pháp luật và các đòn bẩy kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh ác liệt ấy, cả doanh nghiệp lẫn nhân viên đều phải tự thích nghi và không ngừng cải tiến. Những nét đặc trưng của quản trị nguồn nhân lực Mỹ được thể hiện như sau:

– Thiết kế nội dung công việc cụ thể, rõ ràng, phạm vi công việc hẹp cho từng người thực hiện.

– Chế độ tuyển dụng ngắn hạn, nhân viên ít trung thành với doanh nghiệp; doanh nghiệp chưa chú trọng quan tâm đến đời sống, phúc lợi của nhân viên; chưa kích thích nhân viên gắn bó, trung thành với doanh nghiệp.

– Đào tạo, huấn luyện được áp dụng theo chuyên môn hoá cao.

– Có sự phân cực lớn trong tiền lương và tiền lương được sử dụng làm công cụ cơ bản thu hút lao động có trình độ lành nghề cao. Năng lực cá nhân và kết quả thực hiện công việc là một yếu tố quan trọng nhất quyết định việc đề bạt, khen thưởng, thăng tiến.

– Nữ nhân viên được pháp luật bảo vệ: bình đẳng trong tuyển dụng, đào tạo, cơ hội thăng tiến, tiền lương so với nam nhân viên.

– Tôn trọng và phát triển quyền tự do cá nhân.

– Ra quyết định và chế độ trách nhiệm có tính chất cá nhân.

– Các hoạt động quản trị nguồn nhân lực có xu hướng thực dụng.

– Trong thế kỷ 21, quản trị nguồn nhân lực Mỹ dự kiến sẽ tiếp tục hoàn thiện theo hướng sau :

– Thiết kế nội dung việc phong phú hơn, phạm vi công việc sẽ mở rộng áp dụng cho nhóm người cùng thực hiện.

– Chế độ tuyển dụng sẽ kéo dài lâu hơn, doanh nghiệp sẽ quan tâm hơn đến đời sống, phúc lợi của nhân viên, kích thích nhân viên gắn bó, trung thành với doanh nghiệp.

– Chú ý hơn đến các kỹ năng đa ngành trong đào tạo, huấn luyện.

– Nâng cao tính chất tập thể trong việc ra quyết định và chế độ trách nhiệm, phát triển các hoạt động thu hút nhân viên tham gia vào quản trị.

– Tiếp tục phát triển quyền tự do cá nhân cho nhân viên.

– Các hoạt động quản trị nguồn nhân lực có xu hướng nhân bản hơn, phát triển các chương trình phúc lợi và nâng cao chất lượng cuộc sống tại nơi làm việc.

Như vậy, quản trị nguồn nhân lực của Mỹ thành công vì đã có sự kết hợp hài hoà giữa đặc điểm văn hoá dân tộc; cơ chế kinh doanh, các nguyên tắc, thực tiễn hoạt động quản trị; linh hoạt thích ứng với những thay đổi của môi trường và chú trọng thoả mãn các nhu cầu ngày càng cao của nhân viên.

Kinh nghiệm quản trị nguồn nhân lực Mỹ

Khái niệm về Văn hóa và văn minh

Khái niệm về Văn hóa và văn minh

Hai khái niệm rất hay bị đồng nhất này tuy rất gần gũi nhưng thực ra không phải là một và chỉ có thể coi như đồng nghĩa trong một vài trường hợp cụ thể, chẳng hạn khi người ta đối lập văn minh với bạo tàn.

Thông thường, văn minh được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của nhân loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó. Một số nhà nghiên cứu, chẳng hạn AlvinTomer, sử dụng chúng để phân chia lịch sử thành văn minh tiền nông nghiệp, văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Có quan điểm lại cho rằng văn minh là một khái niệm rộng hơn văn hóa, rằng văn minh là sự tổng hoà của văn hóa và xã hội, là sự thể hiện được những hình thức thực tiễn cụ thể của văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như lao động sản xuất, lối sống, hành vi ứng xử…

Khái niệm về văn hóa

Trong thực tế, chúng ta thấy có những tộc người chưa có văn minh vẫn có văn hóa của mình. Đôi khi trên sách báo, chúng ta gặp những nhận xét, đánh giá độ cao thấp của các nền văn minh, trong khi đó lại có những người cho rằng các nền văn hóa thực ra là như nhau, rằng việc chúng ta đánh giá cái này cao hơn, cái kia mạnh hơn là do cách nhìn của chúng ta, còn các nền văn minh, những nền văn hóa ở Aztec chẳng hạn, từ cách đây mấy nghìn năm cũng không kém gì nền văn minh ở phương Tây hiện nay…

Tôi nghĩ rằng, tất cả những nhà nghiên cứu về văn hóa đang lấy cái mẫu của thời xưa, khi chỉ cần sự ngăn cách về địa lý là đủ để ngăn cách các cộng đồng người. Nhân loại hiện đại, bằng các phương tiện của mình, không còn bị giam hãm bởi các khái niệm khu trú như vậy. Nếu như các nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XXII mà vẫn lấy hình mẫu của thế kỷ XX để noi theo thì chắc chắn cũng vẫn đi đến những kết luận khác với những kết luận của những nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XX.

Chúng ta phải phân biệt nghiên cứu về văn hóa như một quá trình vận động, như một yếu tố xã hội, với nghiên cứu lịch sử văn hóa, nghĩa là xem xét nó như một phiên bản tĩnh. Chúng ta cũng không nên phê phán những người lấy sự phát hiện và phân biệt những khía cạnh khác nhau của các nền văn minh làm mục đích nghiên cứu. Bởi vì họ nghiên cứu lịch sử văn hóa chứ không phải nghiên cứu văn hóa. Văn hóa đang và sẽ còn bớt đần sự cát cứ, còn nghiên cứu lịch sử văn hóa thì không bao giờ có sự cát cứ như vậy. Nói như vậy không có nghĩa là không có sự khác nhau về ảnh hưởng. Một cộng đồng lớn sẽ có khả năng tạo ra một vùng ảnh hưởng lớn hơn, đa dạng hơn, bởi càng đông thì tính đa dạng càng lớn. Tính đa dạng về mặt tính cách của con người sẽ tạo ra tính đa dạng về mặt đời sống văn hóa. Sự lan toả của một cộng đồng lớn sẽ mạnh hơn.

Tuy vậy, khi nghiên cứu văn hóa không nên đặt mục tiêu là xác định nó lớn hay bé, mà nên xem nó có độc đáo hay không, có lạ lẫm hay không, có những sáng tạo gì, có đóng góp gì và đặc biệt là nó có đóng góp gì cho văn hóa chung của nhân loại. Tôi nghĩ rằng nghiên cứu như thế mới giúp ta tìm ra được giá trị thật của văn hóa.

Khái niệm về Văn hóa và văn minh

Quản lý là gì?

Quản lý là gì?

Quản lý là quá trình làm việc cùng với và thông qua các cá nhân, các nhóm và các nguồn lực khác (thiết bị, vốn, công nghệ) để đạt được những mục tiêu của tổ chức. Quản lý được thử thách và đánh giá qua việc đạt được các mục tiêu thông qua sự tổ chức và thực hiện các kỹ năng khác nhau.

Quản lý là gì? Khái niệm về quản lý? Thuật ngữ “lãnh đạo” đang được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi nhắc đến vai trò của người quản lý vì chức năng của lãnh đạo là xử lý thay đổi. Người quản lý cần phải lãnh đạo giỏi để thay đổi sản phẩm, hệ thống và con người một cách năng động. Để đi tiên phong trong việc thay đổi, người quản lý cần có những kỹ năng để tạo ra một viễn cảnh tương lai hấp dẫn và làm cho viễn cảnh đó trở thành hiện thực.

Lãnh đạo giỏi được thử thách qua sự thành công trong việc thay đổi hệ thống và con người. Trong thực tế có sự khác biệt khá rõ giữa hiệu quả và hiệu suất. Theo định nghĩa của Kathryn Bartol thì “Nếu hiệu quả là làm đúng việc phải làm thì hiệu suất lại có nghĩa là phải làm đúng cách để đạt được mục tiêu đã đề ra trong hoàn cảnh, điều kiện thực tế”.

Nghe có vẻ đơn giản, nhưng để làm được việc này, người quản lý phải thể hiện khả năng xây dựng mục tiêu và lập kế hoạch của mình. Khi kế hoạch được hoàn thành thì chuyển tải thông tin kế hoạch đến cấp trên và cấp dưới. Trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch, người quản lý sẽ cần đến các công cụ giải quyết vấn đề và khi cần thiết phải ra và thực thi các quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình.

 

Để trở nên người quản lý hiệu quả, chúng ta cần xác định được công việc một người quản lý phải làm để đạt được các mục tiêu của tổ chức (làm đúng việc), cùng với và thông qua các cá nhân (làm đúng cách).

Ken Blanchard đã từng đưa ra kết luận: “Làm một người quản lý thì thước đo quan trọng không phải là điều gì sẽ xảy đến khi anh ta có mặt mà là điều gì sẽ xảy ra khi anh ta vắng mặt”.

Quản lý có hiệu quả?

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng

Người mua – Người tiêu dùng sống trong một xã hội, cho nên hành vi của họ chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố trong xã hội. Đó là:

a) Các yếu tố thuộc về văn hoá-xã hội, bao gồm : Văn hoá, Nhánh văn hoá, Địa vị xã hội.

Văn hoá là một hệ thống những giá trị, niềm tin, truyền thống và các chuẩn mực hành vi  được hình thành, phát triển, thừa kế qua nhiều thế hệ. Văn hóa được hấp thụ ngay trong cuộc sống gia đình, sau đó là trong trường học và trong xã hội.

Văn hoá là nguyên nhân cơ bản, đầu tiên dẫn dắt hành vi của con người nói chung và hành vi tiêu dùng nói riêng. Đó chính là văn hoá tiêu dùng. Cách ăn mặc, tiêu dùng, sự cảm nhận giá trị của hàng hóa, sự thể hiện mình thông qua tiêu dùng… đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của văn hóa. Những con người có nền văn hoá khác nhau thì sẽ có hành vi tiêu dùng khác nhau. Ví dụ, người miền Bắc ăn uống, sử dụng xe cộ, nhà cửa, quần áo khác người miền Nam. Phong cách tiêu dùng của người châu Âu có sự khác biệt lớn so với người châu Á. Do vậy, để thành công các nhà xuất khẩu Việt Nam phải tìm hiều kỹ văn hóa tiêu dùng của các nước nhập khẩu.

Nhánh văn hoá là một bộ phận cấu thành nhỏ hơn của một nền văn hoá. Nhóm tôn giáo là một loại nhánh văn hoá. Các nhánh văn hoá khác nhau có các lối sống riêng, hành vi tiêu dùng riêng. Người đạo Hồi kiêng không ăn thịt bò, phụ nữ ra đường đều phải bịt mạng và mặc quần áo kín mít.Như vậy, các nhánh văn hoá khác nhau sẽ tạo thành các phân đoạn thị trường khác nhau.

Giai tầng xã hội: Trong xã hội nào cũng tồn tại các giai tầng xã hội khác nhau (các đẳng cấp xã hội). Vậy thế nào là giai tầng xã hội?

Giai tầng xã hội là những nhóm người tương đối ổn định trong xã hội được xắp xếp theo thứ bậc, đẳng cấp, được đặc trưng bởi các quan điểm giá trị, lợi ích và hành vi đạo đức chung trong mỗi giai tầng.

Các doanh nghiệp cần quan tâm đến hành vi tiêu dùng trong các giai tầng, đặc biệt là đối với các hàng hoá có tính dễ phô trương như quần áo, giày dép, xe cộ, nhà cửa, hoạt động vui chơi, giả trí… Hiểu rõ hành vi tiêu dùng của các giai tầng, doanh nghiệp sẽ có cơ sở để thực hiện phương châm “Bán những thứ mà khách hàng cần”.

Ở Việt Nam chưa có phân loại chính thức xã hội thành các giai tầng. Tuy nhiên, trong xã hội cũng thừa nhận một số các tầng lớp dân cư khác nhau. Những người cùng chung trong một giai tầng thì thường có hành vi tiêu dùng giống nhau. Những người thuộc tầng lớp thượng lưu không ăn ở các quán ăn bình dân. Họ mua sắm các hàng hoá tiêu dùng đắt tiền, ở nhà cao cửa rộng, chơi tenít, đi xe ô tô sang trọng… Ở Mỹ, người ta phân loại ra thành 6 giai tầng xã hội khác nhau căn cứ vào nghề nghiệp, thu nhập, tài sản, học vấn.

b) Các yếu tố mang tính chất cá nhân: Tuổi tác và giai đoạn trong đời sống gia đình, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế, lối sống, cá tính.

Tuổi tác và giai đoạn trong đời sống gia đình: Nhu cầu về các loại hàng hoá, dịch vụ cũng như khả năng mua của người tiêu dùng gắn liền với tuổi tác và giai đoạn trong đời sống gia đình của họ (chi tiết xin xem phụ lục 1 cuối chương).

Nghề nghiệp có ảnh hưởng lớn đến hành vi mua của khách hàng. Ngoài các hàng hoá liên quan trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp, khách hàng với nghề nghiệp khác nhau cũng tiêu dùng khác nhau. Do vậy, nhà tiếp thị cần tìm hiểu hành vi tiêu dùng của khách hàng với các nghề nghiệp khác nhau như: Công nhân, nông dân, công chức, trí thức, giới nghệ sĩ, nhà quản lý kinh doanh, nhà chính trị…

Tình trạng kinh tế là điều kiện tiên quyết để người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá, dịch vụ. Khi ngân sách tiêu dùng càng cao thì tỷ lệ phân bố cho tiêu dùng các hàng xa xỉ càng tăng lên, tỷ lệ chi tiêu cho các hàng thiết yếu càng giảm xuống. Nói chung, vào thời kỳ kinh tế đất nước phồn thịnh, tăng trưởng thì người ta tiêu dùng nhiều hơn và ngược lại.

Lối sống phác hoạ một cách rõ nét về chân dung cuả một con người. Hành vi tiêu dùng của con người thể hiện rõ rệt lối sống của anh ta. Tất nhiên, lối sống của mỗi con người bị chi phối bởi các yếu tố chung như nhánh văn hoá, nghề nghiệp, nhóm xã hội, tình trạng kinh tế và hoàn cảnh gia đình. Nhưng lối sống của mỗi người mang sắc thái riêng. Mặc dù lối sống là một đặc trưng không được lượng hoá, nhưng các nhà tiếp thị dùng nó để định vị sản phẩm. Đó là “Định vị sản phẩm thông qua các hình ảnh về khách hàng”. Các loại hàng hoá được định vị theo lối sống là mỹ phẩm, đồ uống, thời trang, xe hơi, xe máy, du lịch…Các nhà quản lý cần tìm ra mối liên hệ giữa lối sống và hành vi tiêu dùng các loại hàng hoá để làm cơ sở cho các chiến lược Marketing mix. Họ cũng có thể dẫn dắt nhu cầu tiêu dùng của xã hội bằng các sáng tạo ra các sản phẩm khác nhau có tính hợp lý nhằm vào các lối sống khác nhau.

Các nhà sản xuất bia cho ra đời các loại bia cho các lối sống khác nhau như: bia nồng độ cồn cao với quảng cáo: “Bia thượng hạng dành cho nam giới”; bia nhẹ với thông điệp: “Bia cho hai chúng tôi” hay “Bia cho chàng và nàng”. Còn xe máy thì được quảng cáo:” Xe cho những người ưa cảm giác mạnh”.

Cá tính là những đặc tính tâm lý nổi bật của mỗi người dẫn đến các hành vi ứng xử mang tính ổn định và nhất quán đối với môi trường xung quanh. Có thể nêu ra một số các cá tính thường gặp như: tính cẩn thận; tính tự tin; tính bảo thủ; tính hiếu thắng; tính năng động…Cá tính sẽ ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng. Những người cẩn thận, những người bảo thủ thường không đi tiên phong trong việc sử dụng sản phẩm mới. Ngược lại, là những người năng động, sáng tạo sẵn sàng chịu mạo hiểm khi mua sản phẩm mới. Cá tính cũng là một căn cứ để cho doanh nghiệp định vị sản phẩm. Nghiên cứu cá tính khách hàng cũng có ích cho đội ngũ tiếp thị.

c) Các yếu tố mang tính chất xã hội : Nhóm tham khảo, gia đình, vai trò và địa vị.

Nhóm tham khảo là nhóm có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thái độ, hành vi của con người.

•    Nhóm tham khảo đầu tiên (có ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ) bao gồm: gia đình, bạn thân, láng giềng thân thiện, đồng nghiệp.

•    Nhóm tham khảo thứ hai gồm các tổ chức hiệp hội như: Tổ chức tôn giáo, Hiệp hội ngành nghề, Công đoàn, Đoàn thể, Các câu lạc bộ.

•    Nhóm ngưỡng mộ là nhóm mà cá nhân có mong muốn gia nhập, trở thành viên (các ngôi sao…)

•    Nhóm tẩy chay là nhóm mà cá nhân không chấp nhận hành vi của nó. Do vậy, các cá nhân không tiêu dùng như các thành viên của nhóm mà họ tẩy chay.

Những hàng hoá xa xỉ tiêu dùng nơi công cộng thì cá nhân chịu ảnh hưởng mạnh bởi nhóm. Hàng hoá thiết yếu dùng riêng tư thì mức độ ảnh hưởng của nhóm thấp.

Những “ngôi sao” bóng đá, ca nhạc¼ thường được chọn để quảng cáo sản phẩm. Những người ngưỡng mộ họ muốn tiêu dùng như họ. Do vậy, hành vi tiêu dùng của các ngôi sao có tác động mạnh đến các “fan”. Một cửa hàng quần áo tại Bắc Kinh đã tặng Nữ hoàng Anh một bộ quần áo truyền thống Trung Quốc và xin được chụp ảnh chung với Nữ hoàng trong bộ quần áo đó. Sau đó chủ cửa hàng treo bức ảnh tại một nơi trang trọng trong cửa hàng. Từ đó nhiều khách tham quan đến cửa hàng đều mua loại quần áo mà Nữ hoàng được tặng. Khách sạn Daewo tại Hà Nội đã dành một nơi trang trọng để trưng bày sổ vàng có liệt kê danh sách các nhân vật tiếng tăm đã nghỉ tại khách sạn.

Gia đình có ảnh hưởng mạnh đến hành vi mua của cá nhân, đặc biệt trong điều kiện

Việt Nam khi nhiều thế hệ sống chung nhau trong một gia đình. Tuỳ từng loại hàng hoá mà mức độ ảnh hưởng cuả vợ và chồng khác nhau. Mua xe máy thường do chồng quyết định. Mua các đồ dùng bếp núc do vợ quyết định. Có khi cả hai đều tham gia quyết định. Các nhà quảng cáo mỗi loại sản phẩm cần phải biết nhằm vào ai để thuyết phục.

Vai trò và địa vị xã hội: Người tiêu dùng thường mua sắm những hàng hoá, dịch vụ phản ánh vai trò địa vị của họ trong xã hội. Quảng cáo: “Xe hàng đầu cho những người đứng đầu!” nhằm vào những người tiêu dùng có địa vị cao trong xã hội.

d) Các yếu tố mang tính chất tâm lý : Động cơ, Tri giác, Lĩnh hội, Niềm tin và thái độ.

Động cơ là động lực mạnh mẽ thôi thúc con người hành động để thoả mãn một nhu cầu vật chất hay tinh thần, hay cả hai. Khi nhu cầu trở nên cấp thiết thì nó thúc dục con người hành động để đáp ứng nhu cầu. Như vậy, cơ sở hình thành động cơ là các nhu cầu ở mức cao.

Nhu cầu của con người rất đa dạng. Có nhu cầu chủ động, có nhu cầu bị động. Doanh nghiệp cần phải nắm bắt đúng nhu cầu của khách hàng để thúc đẩy nhu cầu đó thành động cơ mua hàng.

Tri giác hay nhận thức là một quá trình thông qua đó con người tuyển chọn, tổ chức và giải thích các thông tin nhận được để tạo ra một bức tranh về thế giới xung quanh.

Con người có thể nhận thức khác nhau về cùng một tình huống do sự tri giác có chọn lọc, bóp méo và ghi nhớ thông tin tiếp nhận được có chọn lọc. Do vậy có thể hai người có cùng một động cơ nhưng hành động khác nhau trong cùng một tình huống.

Các đặc tính trên của tri giác đòi hỏi các nhà tiếp thị phải nỗ lực lớn để mang thông tin quảng cáo đến cho khách hàng tiếp nhận.

Lĩnh hội hay hiểu biết là những biến đổi nhất định diễn ra trong hành vi của con người dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm được họ tích luỹ. Con người có được kinh nghiệm, hiểu biết là do sự từng trải và khả năng học hỏi. Người lớn từng trải có kinh nghiệm hơn, mua bán thạo hơn. Người từng trải về lĩnh vực nào thì có kinh nghiệm mua bán trong lĩnh vực đó.

Niềm tin và thái độ: Qua thực tiễn và sự hiểu biết con người ta có được niềm tin và thái độ, điều này lại ảnh hưởng đến hành vi mua của họ. Doanh nghiệp phải chiếm được lòng tin của khách hàng về các nhãn hàng của mình. Muốn có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa và vươn ra thị trường thế giới, hàng Việt Nam phải chiếm được niềm tin của khách hàng trong nước và thế giới.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng

Kinh nghiệm phát triển du lịch và sản phẩm du lịch của Nhật Bản

Kinh nghiệm phát triển du lịch và sản phẩm du lịch của Nhật Bản

Theo Chiến lược Tăng trưởng được Nội các Nhật Bản thông qua ngày 18/6/2010, một trong Bảy định hướng chiến lược là phát triển Nhật Bản trở thành một “Quốc gia du lịch”, nhằm vượt qua những thách thức về suy giảm dân số, giảm tỷ lệ sinh, dân số già, kinh tế đi xuống. Sau khi gặp phải thảm họa đại động đất ở Tohoku vào năm 2011, du lịch được kỳ vọng là động lực để phục hồi kinh tế Nhật Bản. Chiến dịch “Hồi sinh Nhật Bản” (được Nội các thông qua ngày 24/12/2011) cũng nhấn mạnh sự phục hồi của ngành du lịch là nền tảng cho sự phục hồi kinh tế Nhật Bản.

Đối với với những thách thức trong những năm qua, chính phủ Nhật Bản đã ban hành Kế hoạch Xúc tiến du lịch quốc gia để phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện cuộc sống người dân, thúc đẩy hiểu biết quốc tế, thông qua thực hiện các giải pháp đồng bộ và toàn diện với mục tiêu đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia du lịch.

Chiến dịch Visit Japan khởi xướng năm 2003 để thu hút khách quốc tế đến Nhật Bản mới chỉ tập trung vào 5 thị trường trọng điểm, trong khi năm 2011 đã tăng lên thành 15 thị trường. Bằng cách xúc tiến tại các thị trường có đông khách đến Nhật Bản cũng như tại các thị trường có tiềm năng tăng trưởng khách đến Nhật Bản trong tương lai, số lượng khách quốc tế đến Nhật Bản đã tăng lên, đạt 8,61 triệu lượt vào năm 2010. Dù vậy, Nhật Bản vẫn cần tập trung đầu tư hơn nữa cho các hoạt động xúc tiến do nước này bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi hậu quả của trận đại động đất hồi năm 2011.

Để tiếp tục thu hút khách với mục tiêu 30 triệu lượt khách quốc tế đến Nhật Bản trong tương lai, chiến dịch Visit Japan cần được thực hiện với những cách thức mạnh mẽ, năng động và hiệu quả hơn, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách quốc tế, không bị lệ thuộc vào khuôn khổ, tư duy và cách làm truyền thống. Không chỉ cần tập trung vào các thị trường trọng điểm truyền thống mà mở rộng các thị trường tiềm năng ở khu vực Đông Nam Á và những khu vực đang tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và tầng lớp trung lưu. Nhanh chóng khai thác các thị trường nguồn mới nổi, không để chậm chân hơn các nước khác.

>>> Các tiêu chí về phát triển sản phẩm du lịch

Ở một số thị trường nguồn, làn sóng du lịch thứ nhất tới Nhật Bản đã qua. Giờ đây cần xây dựng và quảng bá hình ảnh mới của Nhật Bản, không chỉ để thu hút khách hàng mới mà cả những khách hàng cũ. Điều này đòi hỏi đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch, tìm ra những điểm hấp dẫn mới trong ẩm thực, văn hóa, công nghệ… Bên cạnh đó, có thể tập trung phát triển du lịch du học, thu hút sinh viên quốc tế. Họ có thể sẽ là những đại sứ du lịch tiềm năng cho Nhật Bản và là những du khách quay lại.

Một giải pháp quan trọng là cần phải cải tổ Tổng cục Du lịch Nhật Bản, thành lập Cơ quan Xúc tiến du lịch quốc gia trên cơ sở tách chức năng này từ Tổng cục Du lịch, phù hợp với chủ trương của Chính phủ (được thành lập vào tháng 4/2014).

Cần giải quyết những vướng mắc liên quan đến vấn đề ngoại ngữ, chi phí du lịch, quản lý xuất nhập cảnh… Đồng thời, duy trì và cải thiện chất lượng phối kết hợp giữa các cơ quan bộ, ngành, chính quyền các địa phương và các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đi lại du lịch.

Cùng với việc tăng số lượng khách đến, cần quan tâm tới cả hiệu quả kinh tế đạt được. Do vậy, điều quan trọng là cần kéo dài thời gian lưu trú của khách quốc tế ở Nhật Bản và nâng cao chi tiêu du lịch, thu hút các đối tượng khách có chi tiêu cao.

Nhật Bản cũng nhận thấy tầm quan trọng ngày càng gia tăng của loại hình du lịch MICE, ngày càng nhận được sự quan tâm của các quốc gia châu Á và các khu vực khác bởi lợi ích kinh tế của loại hình này, tạo ra được nhiều cơ hội kinh doanh. Du lịch MICE được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các khu vực khác. Tuy nhiên, có mối quan ngại rằng sức cạnh tranh của Nhật Bản về du lịch MICE đang giảm dần. Ở Nhật Bản, việc mời và tổ chức du lịch MICE được thực hiện chủ yếu bởi chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức sự kiện, doanh nghiệp tư nhân và các bên liên quan khác. Tuy nhiên, quy mô và hiệu quả thực hiện có lúc không so sánh được với các quốc gia khác. Do vậy, chính phủ cần có giải pháp nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này.

Về du lịch outbound, cần khuyến khích người dân Nhật Bản đi du lịch nước ngoài, điều này mang lại lợi ích ở nhiều mặt. Ví dụ, sẽ giúp họ hiểu biết hơn về các vấn đề quốc tế, đóng góp vào sự phát triển du lịch ở các quốc gia đang phát triển, góp phần vào thực hiện ngoại giao đa phương thông qua tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Đồng thời, có thể đóng góp vào thúc đẩy du lịch quốc tế đến thông qua nâng cao tình hữu nghị, giao lưu trao đổi song phương, xúc tiến du lịch hai chiều. Do vậy, cần tạo điều kiện cho người dân Nhật Bản có thể đi du lịch nước ngoài dễ dàng hơn.

Đối với thị trường nội địa, trong những năm gần đây, tỷ lệ người dân thực sự đi du lịch đang giảm xuống hàng năm. Số lượng người không đi du lịch ít nhất 1 lần 1 năm đã vượt quá 50% dân số. Đặc biệt, sự suy giảm số lượng thanh niên đi du lịch có thể làm suy thoái thị trường du lịch nội địa.

Để khắc phục tình trạng này, cần chặn đứng xu hướng suy giảm nhu cầu du lịch, mở rộng du lịch nội địa bằng các giải pháp đánh thẳng vào nhóm “không đi du lịch” và khuyến khích thanh niên đi du lịch. Cũng cần khuyến khích mọi người kéo dài thời gian lưu trú, kích cầu du lịch của phân khúc khách du lịch cao tuổi.

Có ý kiến cho rằng sức hấp dẫn du lịch ngày càng giảm do thiếu sự đa dạng hóa các hoạt động, sản phẩm du lịch. Do vậy, việc nâng cao sức hấp dẫn du lịch rõ ràng là yếu tố then chốt. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới những vấn đề cản trở du lịch như khó khăn về tài chính, thời gian, hay thiếu sự hỗ trợ đối với du khách cao tuổi.

Một số giải pháp nhằm phát triển ngành du lịch Nhật Bản:

– Giải pháp về tăng lượng khách quốc tế đến: (1)Thực hiện các chương trình xúc tiến trong chiến dịch Visit Japan; (2) Duy trì và cải thiện toàn diện cơ sở hạ tầng và dịch vụ vận chuyển phục vụ khách; (3) Quảng bá về sự hấp dẫn của du lịch Nhật Bản; (4) Cung cấp thông tin cần thiết về giá cả vận chuyển, cơ sở lưu trú và các vấn đề liên quan đến tour du lịch ở Nhật Bản; (5) Cải thiện thủ tục xuất nhập cảnh, nâng cao chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên;

– Giải pháp về nâng cao mức độ hài lòng của khách: (1) Hình thành các điểm du lịch hấp dẫn được du khách trong nước và quốc tế ưa thích (xây dựng thương hiệu điểm đến, liên kết các điểm du lịch…); (2) Nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của ngành du lịch; (3) Cải thiện thủ tục xuất nhập cảnh, nâng cao chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên; (4) Đào tạo về hành vi ứng xử đối với du khách. (5) Duy trì và cải thiện chất lượng tiện nghi dịch vụ phục vụ du lịch; (6) Đẩy mạnh quảng bá về văn hóa ẩm thực truyền thống, phong cách sống của Nhật Bản, phát triển các sản phẩm mang đặc trưng của Nhật Bản; (7) Nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng du khách là người cao tuổi, người khuyết tật, khách nước ngoài cũng như tất cả du khách; (8) Cung cấp thông tin du lịch thông qua áp dụng công nghệ thông tin hiện đại.

– Giải pháp về tăng số lượng các cuộc hội nghị quốc tế: (1) Nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của du lịch MICE; (2) Cải thiện chất lượng dịch vụ vận chuyển khách; (3) Nâng cao chất lương các công ty vận chuyển quốc tế; (4) Cung cấp thông tin cần thiết về giá cả vận chuyển, cơ sở lưu trú và các vấn đề liên quan đến tour du lịch ở Nhật Bản; (5) Tổ chức quảng bá rộng rãi về các hội nghị quốc tế cũng như các sự kiện lớn tầm cỡ khác; (6) Cải thiện thủ tục xuất nhập cảnh, nâng cao chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên.

– Giải pháp về thúc đẩy người dân Nhật Bản đi du lịch nước ngoài: (1) Đổi mới phương thức nghỉ bù; (2) Thúc đẩy tăng cường hiểu biết lẫn nhau thông qua các cuộc giao lưu giữa các tỉnh/thành của Nhật Bản với nước ngoài; (3) Nâng cao nhận thức của người dân về đi du lịch, nhất là những người chưa đi du lịch.

– Giải pháp về kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch nội địa: (1) Xây dựng các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế; (2) Đổi mới phương thức nghỉ bù; (3) Bảo đảm cung cấp dịch vụ chất lượng cao thông qua sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, và các bên liên quan khác; (4) Nâng cao chất lượng các dịch vụ, tiện nghi phục vụ du lịch (cơ sở lưu trú, ẩm thực, hướng dẫn, các dịch vụ công cộng); (5) Khai thác tốt tiềm năng du lịch để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc: bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên về văn hóa, lịch sử, tự nhiên, cảnh quan,…; (6) Nâng cao nhận thức của người dân về đi du lịch, nhất là những người chưa đi du lịch; (7) Bảo đảm giá cả phù hợp với chất lượng dịch vụ; (8) Nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng du khách là người cao tuổi, người khuyết tật, khách nước ngoài cũng như tất cả du khách.

– Giải pháp về nâng cao mức độ thỏa mãn của khách về điểm du lịch: (1) Hình thành các điểm du lịch được du khách trong nước và quốc tế ưa thích; (2) Tạo ra sức cạnh tranh ở tầm quốc tế cho các điểm du lịch: bảo đảm cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, mang đặc trưng của địa phương thông qua sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp du lịch và các bên liên quan khác; nâng cao chất lượng các tiện nghi phục vụ du lịch, trong đó có cơ sở lưu trú, dịch vụ ẩm thực, hướng dẫn, các dịch vụ công cộng; (3) Khai thác tốt tiềm năng du lịch để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc: bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên về văn hóa, lịch sử, tự nhiên, cảnh quan,…; (4) Đào tạo về hành vi ứng xử đối với du khách; Duy trì và cải thiện chất lượng tiện nghi dịch vụ phục vụ du lịch; Đẩy mạnh quảng bá về văn hóa ẩm thực truyền thống, phong cách sống của Nhật Bản, phát triển các sản phẩm mang đặc trưng của Nhật Bản; (5) Phát triển các loại hình du lịch mới: đa dạng hóa các lựa chọn du lịch (du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch văn hóa, du lịch công nghiệp, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch thể thao, và những loại hình du lịch khác dựa trên thời trang, ẩm thực, phim ảnh, hoạt hình, núi rừng, hoa…); (6) Khơi gợi nhu cầu du lịch mới: thúc đẩy nhu cầu du lịch của thanh niên, kéo dài thời gian lưu trú, xúc tiến du lịch tàu biển, du lịch kết hợp chữa bệnh.

Kinh nghiệm phát triển du lịch và sản phẩm du lịch của Nhật Bản

Dịch vụ xã hội là gì?

Dịch vụ xã hội là gì?

Trong bối cảnh của nghiên cứu này, phạm trù dịch vụ xã hội được đặt trong mối liên hệ với chức năng bảo đảm an sinh và phát triển xã hội của ngành LĐTBXH, do đó để hiểu khái niệm dịch vụ xã hội, chúng ta cần làm rõ mối liên hệ với khái niệm quan trọng là chính sách xã hội. Vậy chính sách xã hội là gì? Và mối quan hệ của chính sách xã hội với dịch vụ xã hội như thế nào?

* Khái niệm về chính sách xã hội

Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá, thể chế hoá các đường lối, chủ trương để giải quyết những vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm phù hợp với bản chất xã hội-chính trị phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người và điều chỉnh các quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. [Bùi Đình Thanh, Xã hội học và Chính sách xã hội, NXB KHXH, Hà Nội, 2004, tr 290]

Xem thêm : Phân loại dịch vụ

Như vậy, mục đích của chính sách xã hội có điểm giống nhau với dịch vụ là đáp ứng nhu cầu của con người trong các xã hội cụ thể và chính sách là sự thể chế hoá các đường lối, chủ trương của nhà nước (vĩ mô).

Một số quan điểm cho rằng dịch vụ xã hội là những hình thức cụ thể hoá của các chính sách xã hội. Nên hiểu khái niệm dịch vụ xã hội như là những phương thức nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, đặc biệt là các nhóm đối tượng yếu thế mà nhà nước và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ (NGO) thực hiện và cung cấp [social networks].

* Dịch vụ xã hội cơ bản

Trước hết, để hiểu rõ hơn về các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống, chúng tôi đưa ra các quan điểm của các nhà khoa học về nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống.

Theo quan niệm của Mác: “Nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định, đảm bảo cho sự sống và phát triển của mình”

Theo quan điểm A.Maslow chia nhu cầu thành 5 loại:

– Nhu cầu vật chất (sinh lý): thức ăn, không khí, nước uống…

– Nhu cầu an toàn (bảo vệ):  nhà ở, việc làm, sức khoẻ…

– Nhu cầu giao tiếp xã hội : Tình thương yêu, được hoà nhập

– Nhu cầu được tôn trọng: Được chấp nhận có một vị trí trong một nhóm người…

– Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu hoàn thiện, được thể hiện khả năng và tiềm lực của mình.

dịch vụ xã hội được Liên hợp quốc định nghĩa như sau: Dịch vụ xã hội cơ bản là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống (UN – Africa Spending Less on Basic Social Services).

Như vậy:

Dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.

Dịch vụ xã hội cơ bản được chia thành 4 loại chính

– Dịch vụ đáp ứng những nhu cầu vật chất cơ bản: Việc ăn uống, vệ sinh, chăm sóc, nhà ở….mọi đối tượng yếu thế là trẻ em, người tàn tật mất khả năng lao động đều phải được đáp ứng nhu cầu này để phát triển về thể lực.

– Dịch vụ y tế: Bao gồm các hình thức khám chữa bệnh, điều dưỡng phục hồi chức năng về thể chất cũng như tinh thần cho các đối tượng.

– Dịch vụ giáo dục: Trường học, các lớp tập huấn, đào tạo kỹ năng sống, các hình thức giáo dục hoà nhập, hội nhập và chuyên biệt…

– Dịch vụ về giải trí, tham gia và thông tin: Đây là loại hình dịch vụ xã hội rất quan trọng đối với các đối tượng thuộc nhóm đối tượng công tác xã hội, hoạt động giải trí như văn nghệ, thể thao,… nâng cao sự tự tin, đẩy mạnh hoà nhập tốt hơn với cộng đồng, nâng cao sự hiểu biết, kiến thức cho đối tượng…

* Dịch vụ công cộng

Dịch vụ do khu vực công cộng tạo ra được gọi là dịch vụ công cộng. Khu vực công cộng giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có tính chất rất đa dạng phản ánh thông qua các chức năng mà nó thực hiện. Đó là chức năng công cộng của Nhà nước (các bộ ngành), chức năng công cộng về lãnh thổ (UBND tỉnh, huyện, xã), chức năng công về y tế-sức khỏe, các doanh nghiệp và tổ chức công cộng. Các doanh nghiệp và tổ chức này cũng gồm nhiều loại hình khác nhau: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp tư nhân hoạt động dưới sự bảo trợ và kiểm soát của các tổ chức công cộng (trường học), các tổ chức bảo vệ xã hội (cảnh sát, an ninh).

Dịch vụ công cộng là một bộ phận của khu vực công cộng, liên quan đến các hoạt động mà mục đích là cung cấp cho mọi công dân các loại dịch vụ phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, không hề có sự phân biệt đối xử nào giữa các công dân được hưởng hoặc có thể hưởng những dịch vụ đó. Nói cách khác, dịch vụ công là tập hợp những dịch vụ cung cấp nhằm bảo đảm cho người sử dụng/công dân trong khung cảnh phát triển của sự đoàn kết xã hội và mang tính phổ cập/phổ thông. Chính vì lý do này nên dịch vụ công cộng có thể chuyển giao cho khu vực tư nhân đảm nhận.

Vì tầm quan trọng và tính đa dạng của dịch vụ công cộng mà được thừa nhận: việc phân biệt giữa khu vực công cộng và dịch vụ công cộng chỉ mang tính tương đối tùy thuộc vào mức độ can thiệp của chính quyền và tính xã hội của dịch vụ.

Dịch vụ xã hội là gì?

Khái niệm về FDI

Khái niệm về FDI

FDI – Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn, tự thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh cho riêng mình, đứng chủ sở hữu, tự quản lí, khái thác hoặc thuế người quản lí, khai thác cơ sở này, hoặc hợp tác với đối tác nước sở tại thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh và tham gia quản lí, cũng với đối tác nước sở tại chia sẻ lợi nhuận và rủi ro.

Nguồn gốc của FDI

FDI là đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ những FDI nhanh chóng xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. FDI trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một nhu cầu không thể thiếu của mọi nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển, những nước công nghiệp mới hay những nước trong khối OPEC và những nước phát triển cao.

Bản chất của FDI:

Có sự thiết lập về quyền sở hữu về tư bản của công ty một nước ở một nước khác

Có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lí các nguồn vốn đã được đầu tư

Có kèm theo quyền chuyên giao công nghệ và kỹ năng quản lí

Có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia

Gắn liên với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế

Khái niệm về FDI